Giải thích nhan đề: “Sống chết mặc bay” lớp 7

Hướng dẫn làm bài văn Giải thích nhan đề: “Sống chết mặc bay” ngắn gọn nhưng đầy đủ và hay nhất

Các bài viết về chủ đề Sống chết mặc bay được quan tâm :

  • Tóm tắt “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn lớp 7
  • Soạn bài Sống chết mặc bay ngắn gọn lớp 7
  • Soạn bài Sống chết mặc bay lớp 7

Nhan đề tác phẩm là cửa sổ nhìn thế giới do nghệ sĩ mở ra, là “chìa khoá nghệ thuật” giúp người đọc mở ra cánh cửa chìm của tác phẩm. Nhan đề như một một mã của thông điệp thẩm mỹ, một mô hình nghệ thuật, nó là cái biểu nghĩa của văn bản văn học, cho độc giả biết trước: văn bản này viết về cái gì, có thể đọc nó hoặc nên đọc văn bản như thế nào. Thực tế sáng tác có rất nhiều nhan đề hay và ý nghĩa, gợi mở cho người đọc những ý nghĩ đa chiều, đồng thời cũng góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Trong chương trình ngữ văn 7, có một nhan đề mà ta không thể không nhớ. Đó là “Sống chết mặc bay”. Khi làm bài văn giải thích ý nghĩa nhan đề này cần giải thích nghĩa đen và ý nghĩa của nó trong việc hình thành tác phẩm. Hy vọng bài văn mẫu dưới đây sẽ cho các bạn có cái nhìn tổng thể hơn về bài viết và giúp các bạn hoàn thành bài tập thật tốt.

BÀI VĂN MẪU GIẢI THÍCH Ý NGHĨA NHAN ĐỀ “SỐNG CHẾT MẶC BAY”

“Sống chết mặc bay” được coi là bông hoa đầu mùa của truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Truyện phản ánh đời sống vô cùng cực khổ của nhân dân ta trước Cách mạng Tháng Tám. Đặc biệt truyện còn lên án gay gắt tên quan phụ mẫu vô trách nhiệm đến mức táng tận lương tâm. Chủ để đó được biểu hiện một cách rõ nét qua nhan đề của câu chuyện

Nhan đề của câu chuyện bắt nguồn từ một câu tục ngữ dân gian “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. “Mặc” nghĩa là mặc kệ, là không quan tâm. Cả câu tục ngữ để chỉ những người vô trách nhiệm, chỉ biết hưởng lợi cho bản thân, không quan tâm người khác khốn khó ra sao, như lão lang băm (thầy lang) chữa bệnh cho người chỉ chăm chăm móc túi tiền của người bệnh, mặc cho người bệnh dùng thuốc của mình sống chết ra sao cũng không quan tâm. Ở đây Phạm Duy Tốn chỉ chọn phần đầu câu tục ngữ vì hợp với nội dung và sự phát triển của câu chuyện. Sự lựa chọn, cách đặt nhan đề của nhà văn rất độc đáo và chính xác, nó tạo nên sự kỳ thú, hấp dẫn kích thích trí tò mò người đọc, người nghe. Nó còn nâng cao thêm giá trị tác phẩm, không những thế, từ nhan đề ấy người đọc có thể khái quát được những đặc điểm nổi bật tiêu biểu của nhân vật trung tâm – tên quan phụ mẫu mà không làm mất đi tính lôi cuốn của nhan đề.

Tác giả đã xây dựng hình ảnh một viên quan phụ mẫu vô trách nhiệm, thờ ơ trước sinh mạng hàng trăm, hàng ngàn người dân lành vô tội, lão chỉ quan tâm đến sự hưởng thụ của bản thân mình mà thôi. Tên quan phụ mẫu là người được cử đi để hộ đê ở làng X, phủ X. Lúc bấy giờ mưa như trút nước, đê đã bị thẩm lậu nhiều đoạn và nguy cơ vỡ rất cao, nhân dân ai nấy đều lo lắng sợ hãi, kẻ cuốc người thuổng hết sức hộ đê. Những tưởng rằng kẻ đứng đầu, kẻ vẫn được coi là cha mẹ của nhân dân sẽ cùng mọi người hộ đê để vượt qua cơn nguy khốn này, nhưng thực tế lại hoàn toàn trái ngược. Quan phụ mẫu ở một nơi cao ráo, sạch sẽ, dù đê có vỡ cũng không ảnh hưởng gì đến ngài. Khung cảnh nơi quan phụ mẫu ở thật ấm cúng, sạch sẽ “đèn thắp sáng trưng; nha lệ, lính tráng đi lại rộn ràng” nơi đó quan phụ mẫu uy nghi, chễm chệ ngồi. Bên cạnh ngài với biết bao sơn hào, hải vị: bát yến hấp đường phèn, trầu vàng, cau đậu, rễ tía,… kẻ hầu người hạ túc trực kẻ gãi chân, kẻ phẩy quạt. Thật nhàn nhã và sung sướng biết bao. Ngài nào đâu có biết ngoài kia dân phu đang khổ cực, khốn cùng đến mức nào. Chung quanh sập nơi ngài ngồi còn có thầy đề, đội nhất, thông nhì ngồi hầu ngài chơi tam cúc. Khung cảnh vô cùng trang nghiêm, tĩnh mịch, chỉ nghe thấy tiếng của quan phụ mẫu, những tiếng dạ vâng của kẻ hầu bài ngài. Cả một hệ thống quan lại hưởng lạc, ăn chơi trong khi người dân đang phải oằn mình chống lại thiên nhiên dữ tợn. Hai khung cảnh đối lập này càng làm rõ hơn bộ mặt độc ác của tên quan phụ mẫu.

Nhưng sự độc ác ấy còn được tác giả khắc họa thêm nữa, và tăng cao hơn nữa ở hai cuộc đối thoại của ngài với lính tráng và dân phu. Lần thứ nhất, khi quan đang “ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt mải trông đĩa nọc” thì ngoài ra xa có tiếng kêu váng lên khiến ai nấy đều giật nảy mình, riêng quan vẫn điềm nhiên vì ngài sắp ù to, có người bẩm: “Bẩm, dễ có khi đê vỡ”, viên quan phụ mẫu buông một câu hết sức vô trách nhiệm: “Mặc kệ” rồi tiếp tục ván bài của mình. Lần thứ hai, lần này bộ mặt tàn ác, vô nhân tính của hắn của thể hiện rõ nét hơn. “Bẩm quan lớn … đê vỡ mất rồi”, bấy giờ ai cùng nôn nao sợ hãi, còn quan phủ quát tháo ầm ĩ: “Đê vỡ rồi!… Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đấu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy”. Những tưởng ông ta sẽ sợ hãi mà ra xem tình hình ra sao, nhưng hắn lại tiếp tục ván bài của mình. Khi ván bài của hắn ù to cũng chính là lúc khắp mọi nơi nước ngập lênh láng, người sống không có chỗ ở, kẻ chết không có chỗ chôn, tình cảnh vô cùng thương tâm.

Qua cách đặt nhan đề và xây dựng nhân vật, Phạm Duy Tốn đã bày tỏ lòng cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ của người dân trong xã hội cũ, đồng thời lên án bọn quan lại bỉ ổi vô lương tâm, chỉ biết hưởng lợi, không quan tâm đến người dân. Vì thế truyện mang giá trị hiện thực sâu sắc.

Similar Posts

One Comment

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *