Phân tích “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn đầy đủ lớp 8

“Chiếu”, “chế”, “hịch”, “cáo” nói chung là những văn bản hành chính, công vụ, thường là mệnh lệnh hoặc lời kêu gọi, thông báo từ trên ban xuống. Tác giả của nó, hoặc người ở vào tư thế phát ngôn phải là bậc vua chúa hoặc chủ tướng công bố một đường lối, chủ trương mà những thần dân hoặc tướng sĩ dưới quyền phải hết lòng thực hiện hoặc tường trình một sự kiện lịch sử nổi bật để mọi người cùng nghe. Hướng dẫn làm bài văn phân tích “Chiếu dời đô” lớp 8 hay nhất

Các bài viết về chủ đề Chiếu dời đô được quan tâm :

  • Bài viết số 6 lớp 8 đề 1: Dựa vào các văn bản “Chiếu dời đô” và “Hịch tướng sĩ”, suy nghĩ về vai trò của người lãnh đạo
  • Soạn bài Chiếu dời đô lớp 8

Trên phương diện trình bày, nó là một áng văn nghị luận, dựa vào lí lẽ, lập luận để thuyết phục trăm họ, muôn dân. “Chiếu dời đô” nằm trong tình hình ấy, nhưng đầy chất văn chương, nhất là văn xuôi trên chặng đường lập quốc. Nó cũng là khí phách của dân tộc Đại Việt trên đà lớn manh. Sức thuyết phục của nó tuy là tiếng nói của một người nhưng hội tụ tấm lòng của hàng triệu người, của toàn dân tộc. Trong chương trình ngữ văn lớp 8, ta sẽ bắt gặp đề bài phân tích “Chiếu dời đô”. Để làm được bài văn này cần phân tích được lập luận và dẫn chứng của tác giả, đồng thời phân tích ý nghĩa của tác phẩm. Dưới đây là bài văn mẫu hy vọng các bạn có thể hoàn thành thật tốt.

BÀI VĂN MẪU PHÂN TÍCH “CHIẾU DỜI ĐÔ”

Lý Thái Tổ tên húy là Lý Công Uẩn (974 – 1028), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Hậu Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì 20 năm, từ năm 1009 đến khi qua đời năm 1028. Ông sinh năm 974, là người ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang. Năm 1010, Lý Công Uẩn quyết định dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (sau đổi thành Thăng Long – Hà Nội ngày nay), đổi tên từ nước Đại Cồ Việt thành Đại Việt, bắt đầu một thời kì phát triển mới của dân tộc. Nhân dịp này, Lý Công Uẩn đã viết “Chiếu dời đô” để thông báo rộng rãi quyết định dời đô của mình cho toàn thể dân chúng được biết. Đây cũng chính là tác phẩm duy nhất của ông để lại cho đời sau.

Toàn bộ tác phẩm chia làm hai luận điểm lớn:

Việc thay đổi kinh đô đối với triều đại nhà Lý là một tất yếu khách quan. Việc thay đổi ấy có tính chất quy luật, không thể khư khư bảo thủ chủ quan “theo ý riêng mình”. Cái tính khách quan ấy thể hiện ở hai yếu tố: trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân. Cả hai yếu tố hội tụ được lợi ích lâu dài: chỉ có “đóng đô ở nơi trung tâm” mới có khả năng “mưu toan nghiệp lớn, tính kế, muôn đời cho con cháu” lâu dài.

Bắt chước người xưa mà không nệ cổ, ấy là một ý nghĩ phóng khoáng, canh tân. Sự lựa chọn nên hay không nên, lập luận của tác giả dựa vào thực tế xưa và nay. Sự đối lập giữa hai cách nghĩ, hai cách hành động khác nhau, tự nó bật lên chân lí: xưa không hẳn đã là cổ hủ, nay tuy là mới, nhưng chưa hẳn đã thức thời. Lấy cái đúng của hôm nay mà soi vào quá khứ, Lý Công Uẩn đã bắt gặp cách nghĩ của người xưa. Kế tục truyền thống, phát huy truyền thống cần có một sự sáng suốt, sàng lọc, đó là một phương châm, phương hướng nên làm. Tất cả những sự nên hay không nên, lập luận diễn ra ba bước: hành động dời đô hay đóng yên đô thành một chỗ, mục đích của việc dời đô và kết quả của việc dời đô. Không tán thành cách làm “Không noi theo dấu cũ của Thương, Chu” của hai nhà Đinh, Lê, lập luận có tính chất phê phán chỉ còn hai bước của tư duy được nhấn mạnh nhiều hơn. Cái lỗi của hai nhà Đinh, Lê có đến bốn điều cần phủ nhận là “lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây”. Sức thuyết phục của lối văn tranh luận không phải ở sự dài lời. Bốn vế đầu của câu văn như những mũi tên trí tuệ bắn ra nhằm vào một cái đích: ấy là sự lẽ ra phải thay đổi của hai nhà Đinh, Lê trong hiện tại. Hậu quả của nó, dưới hình thức biền văn, đầy thuyết phục: “khiến cho triều đại không được lâu bền, số phận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi”.

Thành Đại La là một nơi định đô lí tưởng.

Ngay khi nhìn ngắm vào hai tấm gương phải trái khác nhau, tác giả đã lộ rõ ý mình: không thể không thay đổi cách nhìn, cách làm. Nhưng tỏ ra tinh tế, khiêm nhường, tác giả chỉ giãi bày cách cảm: Trẫm rất đau xót về việc đó, tuy vậy không ngầm ý quyết đoán, mọi quyết đoán không gì cưỡng được vì nó hợp với mệnh trời: không thể không dời đổi. Phủ định một điều phủ định chính là sự khẳng định.

Ý tưởng của nhà vua trong việc định đô ở Đại La thuyết phục người nghe ở cả hai yếu tố: lí lẽ và tình cảm, nội dung và hình thức diễn đạt, trình bày. Về lí lẽ, lợi thế của Đại La được trình bày rất kỹ lưỡng với một số lượng câu không ít, nó như nốt nhấn của bài văn. Bốn câu văn đầy trọng lượng này lại được nhân lên gấp đôi bởi mỗi câu có đến hai vế, mỗi vế lại có sức tác động riêng bổ sung cho nhau, thật là tầng tầng lớp lớp. Nội dung của đoạn văn dựa vào thuyết phong thủy mà phát hiện ra vẻ đẹp muôn mặt của Đại La: nào là vị thế địa lí, vị thế văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện dân cư và sự tốt tươi cho muôn vật. Đại La như một viên ngọc, nếu có ánh sáng của nhận thức soi vào, nó lấp lánh lên bao điều ngưỡng mộ. Tình cảm của người viết dù không muốn lộ ra vẫn ngập tràn trong tiết tấu, nhịp điệu trong từng chữ, từng câu “lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu” như thế. Yêu mến Đại La là xuất phát từ ý đồ “mưu toan nghiệp lớn”, là một tầm nhìn xa rộng đến mai sau, vì lợi ích của muôn dân trăm họ. Nội dung đầy chất trí tuệ và tâm hồn ấy được diễn tả bằng hình thức biền văn chuẩn mực. Hình thức này đã góp phần không nhỏ vào hiệu quả của đoạn văn. Để sơ kết, cũng là để nhấn mạnh về ưu thế tuyệt vời của Đại La, tác giả đã sử dụng nhịp văn dồn dập với những cách tôn vinh không đơn điệu: đã là nơi “thắng địa”, “chốn tụ hội trọng yến của bốn phương” còn là “nơi kinh đô bậc nhất”.

Như vậy Lý Công uẩn là một vị vua thông minh, nhân ái hiền từ và rất đổi hợp lòng dân. Ông không chỉ thấy những thực tế dẫn chứng từ các triều đại trước cũng như sự tốt đẹp của địa hình Đại la mà ông còn đánh vào tình cảm để thuyết phục. tuy là một bài chiếu có ý nghĩa ban bố mệnh lệnh nhưng chiếu dời đô của Lý Công Uẩn rất có sức thuyết phục bởi nó hợp lẽ trời, lòng dân. Tác giả sử dụng hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng điệu mạnh mẽ để thuyết phục dân chúng tin và ủng hộ quyết định của mình.

Similar Posts

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *