Cảm nghĩ về bài thơ “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch lớp 7 hay nhất

Hướng dẫn làm bài văn cảm nhận về bài thơ “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch hay nhất trong chương trình lớp 7 bạn đọc có thể tham khảo. Đường thi- nơi nảy nở của biết bao bông hoa văn học, nơi tỏa sáng của những tài năng nghệ thuật có một không hai mà trải qua thời gian, qua bao gió bụi năm tháng, có những cái tên vẫn khiến người đời sau phải thán phục và học hỏi.

Nhắc đến thơ Đường là nhắc đến một Thi Thánh Đỗ Phủ, Thi Phật Vương Duy, Thi Quỷ Lý Hạ. Và thật thiếu sót khi không nhắc đến Lý Bạch- một trong những cái tên được người đương thời và hậu thế đánh giá và ngưỡng mộ. “Tĩnh dạ tứ” là một trong những bài thơ tuyệt cú của ông. Trong chương trình văn học lớp 7, các bạn sẽ cảm nhận bài thơ trên. Khi cảm nhận một bài thơ, chú ý vào mạch cảm xúc và ý nghĩa các câu thơ theo bố cục, những sáng tạo và khác biệt được tác giả thể hiện qua những câu thơ. Thơ Đường là một trong những thể loại hàm súc, mang nhiều giá trị nhưng cũng rất khó để tiếp cận và nêu bật được cái hay của từng con chữ. Trước khi viết bài, các bạn có thể xem qua bài viết mẫu sau đây. Chúc các bạn thành công!

BÀI VĂN MẪU CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ “TĨNH DẠ TỨ”

Có một người được người đời gọi bằng cái tên Trích Tiên Nhân- là người Tiên bị giáng đày xuống trần gian. Sự xuất hiện của ông như một ngôi sao tỏa ra vầng hào quang làm sáng cả bầu trời thơ Đường. Đó chính là Thi Tiên Lí Bạch. Một trong những tác phẩm ghi dấu sự đóng góp và thành công của ông chính là bài thơ “Tĩnh dạ tứ”:

  • “Sàng tiền minh nguyệt quang,
  • Nghi thị địa thượng sương.
  • Cử đầu vọng minh nguyệt,
  • Đê đầu tư cố hương.”

Cùng với Thi Thánh Đỗ Phủ, Thi Tiên Lí Bạch được coi là nhà thơ có ảnh hưởng, một trong những ngôi sao chói lói của thơ ca trung đại. Thơ ông mang phong cách lãng mạn, trữ tình, màu sắc siêu trần, thoát tục, qua lớp gió bụi hàng ngàn năm qua vẫn in sâu vào lòng độc giả Á Đông. Nếu trong thơ Đỗ Phủ dòng sông nức nở, vầng trăng thổn thức và chim muông, cỏ cây câm lặng, úa vàng thì trong thơ Lí Bạch có dòng sông hát ca, chim muông ríu rít, vầng trăng duyên dáng. Những bài thơ của ông đều được coi là tuyệt tác thi ca xưa, liệt vào hàng thi ca kinh điển, được người đời sau mô phỏng học tập. Một trong những điều đặc biệt là trong thơ Lí Bạch thường có hình ảnh trăng như một nhân vật không thể thiếu. Với chủ đề quen thuộc “vọng nguyệt hoài hương”, bài thơ “Tĩnh dạ tứ” vẫn có được những nét riêng biệt và độc đáo.

Hai câu thơ mở đầu là cảnh đêm trăng trong một đêm không ngủ:

  • “Sàng tiền minh nguyệt quang,
  • Nghi thị địa thượng sương.”
  • (Đầu tường trăng sáng rọi,
  • Ngỡ mặt đất phủ sương.)

Chỉ một từ “sáng” đã gợi ra không gian yên tĩnh tuyệt đối. Đêm đã khuya, ánh trăng lên cao, chiếu vào nơi đầu giường mới khiến tác giả giật mình tỉnh dậy, cứ ngỡ ánh trăng bàng bạc ấy là sương đang la đà trên mặt đất. Từ “nghi” (ngỡ) đã thể hiện cái giật mình đến ngỡ ngàng của thi nhân. Trăng đã lên và sà vào đầu giường từ lúc nào, đã len lỏi khắp không gian với thứ ánh sáng bàng bạc giăng mắc. Nhưng có vẻ thi nhân còn đang ưu tư trong mối quan tâm nào khác mà không nhận ra vẻ đẹp dịu dàng của thiên nhiên. Để rồi, khi ánh sáng nơi đầu giường chiếu đến mới bất giác giật mình chợt tỉnh. Câu thơ có cái thảng thốt, ngỡ ngàng. Chữ “sương”, tự nó đã mang đến hơi lạnh cho đêm trăng hay còn là cái lạnh lẽo của lòng người lan sang cảnh vật? Hai câu thơ đầu tả cảnh hay còn ẩn chứ tình?

Hai câu thơ sau xuất hiện là miếng ghép còn thiếu để tạo nên một bài thơ tuyệt cú:

  • “Cử đầu vọng minh nguyệt,
  • Đê đầu tư cố hương.”
  • (Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
  • Cúi đầu nhớ cố hương)

“Cử đầu”- ngẩng đầu, tư thế đầy chủ động của nhà thơ cho thấy thi nhân không hề thờ ơ với ánh trăng. Trăng với ông vốn đã là tri kỉ. Ngay từ thuở nhỏ, ông thường lên núi Nga Mi ngắm trăng. Đêm nay, trong khoảng không gian yên tĩnh này, trăng xuất hiện lại có sức lay động mạnh mẽ tận nơi sâu thắm trái tim nhà thơ. Đêm vốn là khoảng thời gian để con người trải lòng, là khi nỗi nhớ thương được bộc lộ và thể hiện da diết nhất. Trong tâm trạng hoài hương của một kẻ li hương, ánh trăng nơi đầu giường đã đánh thức một vùng kí ức về thời ấu thơ, về những hoài niệm. Như thế, cái “cử đầu” không gợi cho ta cảm giác thanh thản, nhẹ nhàng của người ngắm trăng mà là cái ngẩng đầu chất chứa đầy tâm trạng. Còn “đê đầu”- cúi đầu là cáo cúi đầu trầm lắng của thi nhân, ẩn sau đó là những đợt sóng lòng đang dâng lên cuồn cuộn- nỗi nhớ cố hương. Cái cúi đầu đầy ghìm nén, giấu cảm xúc vào bên trong để con người không yếu đuối, nhỏ bé. Cái hay của Lí Bạch chính là cách gọi “cố hương”. “Cố nhân”, “cố hương”, dẫu đã là quá khứ nhưng dung chứa bao tình cảm, cảm xúc mà mỗi khi gợi về là cả thái độ trân trọng, nhớ thương. Cái đã “cố” mà vẫn hiện diện nơi thực tại này. Hai câu thơ là hai tư thế đối lập, là bên ngoài và bên trong nhưng đều chung một đích đến, một nỗi hoài vọng về quê hương, một nỗi nhớ da diết.

Nếu “Vọng Lư sơn bộc bố” cho ta thấy những liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, mới lạ với vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của một tâm hồn tinh tế, yêu thiên nhiên thì ở đây, bài thơ chẳng có phép phóng đại tạo hình, chẳng có kết hợp gì mới lạ. Những con chữ bình dị, mộc mạc mà lại thành “tuyệt cú”. Bởi ở đó là tình cảm chân thành của một tấm lòng xa quê luôn hướng về cố hương. Không quan trọng con người ta ở đâu, chỉ cần mỗi nơi xa lạ đều có hình bóng quê hương in dấu trong lòng. Đó chính là “ý tại ngôn ngoại”, nhà thơ không nói nhiều mà gợi thật nhiều.

Qua bốn câu thơ, ta hiểu hơn về tình yêu quê hương- nơi sinh ra và gắn bó với mỗi người. Đó không chỉ là của một người, một lãnh thổ mà ở mọi người, mọi nơi trong cuộc sống.

Similar Posts

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *